Khó khăn trong học tập là một trong những vấn đề lớn của học sinh hiện nay, cũng là một trong những nguyên nhân gây khó khăn về tâm lý. Khảo sát của nhóm tác giả Trần Thị Nhân Ái và Trần Thị Lệ Thu thực hiện trên 1.000 cặp học sinh/cha mẹ học sinh cho thấy, khó khăn . Trong phần một, chúng ta đã cùng tìm hiểu khái niệm sinh viên đại học qua lăng kính một số học thuyết phát triển về độ tuổi mới trưởng thành. Trong phần này, mình sẽ giới thiệu những khó khăn tâm lý thường gặp của sinh viên và gợi ý một số hướng phát triển hệ thống hỗ trợ sức khỏe tâm lý cho sinh viên, dựa trên những tựa sách mới nhất về chủ đề này. Vấn đề về tập thể, văn hóa và các mối quan hệKhi nhìn vào những điều được liệt kê dưới đây, mình muốn mời bạn dừng lại một chút và ngẫm nghĩ về chính trải nghiệm của bạn hay của một ai khác về những chủ đề này khi bạn hoặc họ ở độ tuổi 18-24Phân biệt đối xửMặc cảm ngoại hìnhVấn đề với gia đình hay các mối quan hệ thân mậtHoạt động tình dụcĐịnh hướng xu hướng tính dụcQuyết định tham gia các hoạt động tập thểĐau buồn và mất mátTrên đây chỉ là một số trong vô vàn những chủ đề mà người tuổi mới trưởng thành thường hay gặp khó khăn trong quá trình tìm kiếm câu trả lời và định hướng cho bản thân. Ví dụ trong chủ đề hoạt động tình dục, nghiên cứu trên 320 sinh viên từ một trường đại học công lập của Thái Lan cho thấy 68% sinh viên đã quan hệ tình dục, nhưng chỉ có 34% từng bàn luận về các bệnh lây nhiễm qua đường tình dục [1]. Điều này cho thấy, quyết định quan hệ tình dục của sinh viên trong nghiên cứu chưa được cân nhắc kỹ càng. Ngoài việc chưa am hiểu về tình dục an toàn, xung quanh quyết định này còn có thể tồn tại những vấn đề khác như bạo lực tình dục, chưa biết cách thẳng thắn từ chối và đặt ra giới hạn, áp lực từ bạn bè về việc phải sớm quan hệ tình dục lần đầu tiên, Những câu hỏi quan trọng sinh viên phải tự trả lời trong quá trình hình thành bản thân này rất dễ dàng dẫn đến lo lắng và căng thẳng [2], nếu không có sự hỗ trợ sớm, những vấn đề này có thể kéo dài và gây ra những ảnh hưởng không nhỏ đến học tập và đời sống của sinh viên. Những vấn đề về sức khỏe tâm lý Ngoài các vấn đề thường gặp nêu trên, đôi khi sinh viên đại học còn có thể gặp phải những rối loạn tâm lý. Những rối loạn này thường được chẩn đoán dựa trên DSM-5 Cẩm nang chẩn đoán và thống kê các rối loạn tâm thần và ICD 10 Phân loại bệnh quốc tế, sửa đổi lần thứ mười. Tuy nhiên, chỉ những chuyên gia tư vấn/tham vấn tâm lý được đào tạo ít nhất là hệ thạc sĩ tư vấn tâm lý và có chứng chỉ hành nghề, mới có thể chẩn đoán một số rối loạn phổ biến cho sinh viên nhưRối loạn trầm cảm depressive disordersRối loạn lo âu anxiety disordersRối loạn thích nghi adjustment disordersRối loạn ăn uống feeding and eating disordersRối loạn liên quan đến chất gây nghiện substance-related and addictive disordersTự gây thương tích nonsuicidal self injuryRối loạn hành vi tự sát suicidal behavior disordersTrong số những rối loạn tâm lý trên, bốn rối loạn phổ biến nhất của sinh viên tại Mỹ là rối loạn trầm cảm, ăn uống, sử dụng rượu bia và các rối loạn liên quan đến sự tấn công/bạo lực tình dục. Có đến 65% sinh viên nữ năm nhất tại Mỹ đối mặt với triệu chứng rối loạn ăn uống [3]. Khoảng 25% tổng số sinh viên tìm kiếm trợ giúp từ phòng tư vấn tâm lý có chẩn đoán rối loạn trầm cảm [4]. Gần 20% sinh viên Mỹ uống rượu quá độ, và vấn đề này trực tiếp liên quan đến tấn công và bạo lực tình dục mà rất nhiều sinh viên đa phần thuộc phái nữ từng gặp phải trong quá trình đại học [5]. Mình liệt kê những con số này để nói lên sự phổ biến của các vấn đề tâm lý trong sinh viên mà giới hạn bài viết này chưa thể đi sâu vào chi tiết. Nhà tham vấn tâm lý chuyên làm việc với sinh viên đại học có thể tham khảo tựa sách College student mental health counseling A developmental approach xuất bản năm 2014 để hiểu rõ hơn về cách phòng ngừa, công cụ đánh giá, kế hoạch điều trị chuyên dành cho sinh viên, đồng thời thường xuyên cập nhật và trau dồi kiến thức chẩn đoán khoa học theo Cẩm nang chẩn đoán và thống kê các rối loạn tâm thần hiện nay là DSM-5.Một số định hướng cho giáo dục đại học nhằm hỗ trợ sức khỏe tâm lý cho sinh viênTrong một trong những tựa sách mới nhất xuất bản năm 2020 viết về tư vấn tâm lý đại học, tác giả Derrick Paladino và các cộng sự đề xuất những mô hình hỗ trợ sức khỏe tâm lý cho sinh viên như sau [6] 1. Giáo dục và phòng ngừa education and preventionNhững vấn đề về tập thể, văn hóa, và các mối quan hệ, tuy đa dạng và đặt ra vô vàn câu hỏi cho sinh viên, nhưng lại hoàn toàn có thể tiếp cận sớm trong công tác phòng ngừa, nhằm giảm khả năng phát triển thành các rối loạn tâm lý lâm sàng nghiêm trọng hơn. Thực tế, đây là ưu tiên hàng đầu cho các mô hình hỗ trợ sự phát triển thành công cho sinh viên student development và student success và là nhiệm vụ thiết yếu của trường đại học [7]. Khi những vấn đề phổ biến này phát triển thành các triệu chứng rối loạn tâm lý, sinh viên có thể gặp khó khăn trong việc nhận ra tính trầm trọng của các triệu chứng và trong việc tìm kiếm sự giúp đỡ kịp thời. Cụ thể, nghiên cứu của Hương Nguyễn và Chi Nguyễn khảo sát trên 350 sinh viên đại học Việt Nam cho thấy chỉ 32% sinh viên nhận diện được các triệu chứng trầm cảm cơ bản [8]. Điều này cho thấy thấy, trường đại học cần chủ động tạo ra những không gian giáo dục, phòng ngừa an toàn, vô định kiến để sinh viên có thể tin tưởng tham gia và thoải mái tìm hiểu về những khó khăn này. Một ví dụ cho cách tiếp cận này là trang Facebook Wellbeing - RMIT Vietnam được đại học RMIT Việt Nam sử dụng nhằm truyền tải những thông tin về sức khỏe tâm lý cho sinh viên. RMIT cũng thường xuyên tổ chức các buổi workshop để giới thiệu và tạo không gian cho sinh viên thảo luận về các vấn đề như [9] Quấy rối tình dục sexual harassment Bắt nạt/đe dọa trực tuyến bullying/cyberbullyingUống rượu bia và sử dụng các chất kích thích drug and alcohol consumption Trách nhiệm cùng xây dựng cộng đồng an toàn safer community responsibilities Cách quản lý và giải quyết sự tức giận/xung đột anger/conflict management and resolvingMột số gợi ý khác về phương pháp giáo dục, phòng ngừa mà trường Loyola Marymount University nơi mình đang theo học hiện đang áp dụng gồm [10]Đào tạo một nhóm sinh viên có khả năng tổ chức, truyền đạt thông tin sức khỏe tâm lý cho đồng môn và sử dụng ngôn ngữ của sinh viên để có thể tiếp cận gần gũi hơn với những vấn đề khó diễn đạtĐẩy mạnh truyền thông và xóa bỏ định kiến về các rối loạn tâm lý và việc tìm kiếm sự trợ giúp của sinh viênĐưa một số bộ môn giáo dục tâm lý/kỹ năng cơ bản vào chương trình giới thiệu chung cho tân sinh viên 2. Can thiệp tâm lý psychological interventionTrong một vài năm gần đây, các văn phòng tư vấn tâm lý mở ra rầm rộ tại các trường đại học Việt Nam với hy vọng đáp ứng dịch vụ tư vấn và can thiệp tâm lý cho sinh viên. Không chỉ các trường đại học quốc tế và bán công như RMIT, Fulbright, Hoa Sen, Tôn Đức Thắng, mà cả các trường công lập như ĐH Ngoại ngữ - ĐHQGHN, ĐH KHXH&NV - ĐHQG-HCM, ĐH Kinh tế Tài chính, cũng lập ra những phòng tư vấn riêng. Tuy nhiên, chúng ta cần hiểu rằng một chuyên gia tham vấn tâm lý hoặc can thiệp khủng hoảng trực tiếp thực sự cần được đào tạo chuyên nghiệp khoảng 5 năm là ít nhất. Sinh viên không chỉ “cần người lắng nghe, chia sẻ nỗi niềm”, mà từng câu chữ, lời nói, thậm chí vài giây im lặng, hay chỉ một hơi thở, cái gật đầu của nhà tham vấn tâm lý đều đã phải qua đào tạo và rèn luyện bài bản vì chúng có tác động trực tiếp và mạnh mẽ đến mối quan hệ vô cùng nhạy cảm giữa nhà tham vấn và người được tham vấn. Bài toán kiểm soát chất lượng của các nhà tham vấn tâm lý tại Việt Nam còn khá nan giản do chưa có những hiệp hội tư vấn tâm lý và giám sát chất lượng mang tầm quốc gia và quốc tế. ĐH Hoa Sen và nhóm Sài Gòn PsycHub hiện đang khá tích cực trong việc công khai chứng chỉ, chất lượng đào tạo của các nhà tham vấn tâm lý của nhóm [11]. Năm 2015, trường ĐH KHXH&NV - ĐHQG-HCM thiết kế và tổ chức đào tạo chương trình cử nhân tư vấn tâm lý tương đối giống với chương trình thạc sĩ tư vấn tâm lý tại Mỹ, hứa hẹn sẽ góp phần cải thiện được sự khan hiếm nguồn nhân lực chất lượng trong ngành nghề này [12]. Một điểm cần lưu ý rằng, dù có bằng cấp tiến sĩ tâm lý học nhưng không được đào tạo và thực tập kỹ năng tham vấn counseling skills thì các “chuyên gia tham vấn” này sẽ không khác gì những nhà nghiên cứu toán học đi dạy toán mà không được đào tạo kỹ năng sư số gợi ý khác cho phương pháp can thiệp tâm lý mình quan sát được từ một số trường đại học của bang California gồm cóGiảm tối đa chi phí tham vấn, tư vấn tâm lý cho sinh viên, để khuyến khích sinh viên tìm kiếm sự giúp đỡ sớm nhất ngay từ lúc bắt đầu gặp khó khăn với các vấn đề sức khỏe tâm lýKết hợp với các bệnh viện, cơ sở y tế lân cận để cung cấp dịch vụ can thiệp khủng hoảng miễn phí cho sinh viênTổ chức các nhóm hỗ trợ kín và tư vấn theo nhóm, dĩ nhiên với điều kiện là chuyên viên tư vấn phải được đào tạo riêng về tham vấn và hỗ trợ trị liệu tâm lý nhóm group therapy and facilitationSử dụng TAO Therapy Assistance Online, một nền tảng hỗ trợ trực tuyến, nơi sinh viên có thể tự tìm kiếm các nguồn tự trợ giúp self-help, các biện pháp can thiệp rối loạn lo âu, trầm cảm, và các công cụ để rèn luyện chánh niệm mindfulness, tăng cường sức khỏe toàn diện wellnessGiới thiệu các đường dây nóng ngăn ngừa tự sát để sinh viên luôn có một kế hoạch an toàn safety plan cho mình và người thân cận trong giây phút một mình đối mặt với khủng hoảngXét đến khả năng và hoàn cảnh hiện tại của giáo dục đại học Việt Nam, hai phương pháp tiếp cận trên nên là ưu tiên số một. Tiếp đến, về phương pháp điều trị tâm lý treatment và quản lý sau điều trị after treatment trong môi trường đại học, có thể áp dụng những mô hình trị liệu tâm lý đã và đang được sử dụng phổ biến trong tư vấn tâm lý học đường school counseling như tư vấn tập trung vào cá nhân con người person-centered counseling, liệu pháp thực tế reality therapy, phương pháp tiếp cận hành vi nhận thức cognitive behavioral approaches, tư vấn ngắn gọn tập trung vào giải pháp solution-focused brief counseling, liệu pháp tường thuật narrative therapy và các phương pháp trị liệu sáng tạo như nghệ thuật và âm nhạc creative counseling approaches [13].Kết luậnQua hai phần của bài viết về sự phát triển và sức khỏe tâm lý của sinh viên này, mình hy vọng bạn đọc có được cái nhìn tổng quan về những thử thách sinh viên thường phải đối mặt trong quá trình học đại học và gợi mở một số phương pháp hỗ trợ sinh viên mà các trường đại học có thể áp dụng. Bản thân mình rất quan tâm tới độ tuổi này và luôn hy vọng nhận được nhiều ý kiến, câu hỏi về những khúc mắc các bạn sinh viên cần trợ giúp, cũng như tiếp tục nghiên cứu về đề tài tư vấn tâm lý cho sinh viên dưới góc nhìn của một nền giáo dục toàn diệnCuối cùng, xin mượn lời Hiệu trưởng trường đại học Fulbright Việt Nam, “Chúng tôi theo đuổi truyền thống giáo dục khai phóng của Mỹ nhưng chúng tôi là một cơ sở giáo dục Việt Nam có gốc rễ từ xã hội này. Chúng tôi không chỉ muốn trở thành một bản sao của người Mỹ”[14] để nhấn mạnh rằng, công cuộc phát triển nền giáo dục đại học tại Việt Nam, dưới sự dẫn dắt của những người trẻ và những công trình nghiên cứu tâm huyết, sẽ hoàn toàn có thể tạo ra một hướng đi riêng đầy sáng tạo cho Việt Nam. Để làm được điều này, mình hy vọng Việt Nam sẽ có nhiều hơn những sự hợp tác, nghiên cứu định tính từ các trung tâm/văn phòng tư vấn tâm lý và hỗ trợ sinh viên để có thể tạo tiền đề dữ liệu và gợi mở những câu hỏi nghiên cứu tiếp tập Hương LêMinh hoạ La QuỳnhDanh sách tham khảo[1] Ratanasiripong P, Rodriguez A. Promoting wellness for Thai college students. Journal of College Student Development [Internet]. 2011 Mar [cited 2021 Mar 6];522217–23. Available from [2] Degges-White S, Borzumato-Gainey C. College student mental health counseling a developmental approach. New York, NY Springer Publishing Company; 2014. 237 p.[3] Gladding ST. Counseling A comprehensive profession. Pearson Education; 2018. 373p.[4] Gladding ST. 373p.[5] Gladding ST. 374 p.[6] Paladino DA, Gonzalez LM, Watson JC. College counseling and student development theory, practice, and campus collaboration. American Counseling Association; 2020.[7] Higher Education Mental Health Alliance. About HEMHA. [cited 2021 Feb 25]. Available from [8] Nguyen CTQ, Nguyen HT. Mhealth literacy knowledge of depression among undergraduate students in Hanoi, Vietnam. International Journal of Mental Health Systems. 2018 [cited 2021 Mar 6]; 121. Available from [9] RMIT Vietnam Student Life HN. Emerging issues [Facebook]. 2020 Dec 14 [cited 2021 Feb 25]. Available from [10] Loyola Marymount University. Wellness [Internet]. Los Angeles, CA [cited 2021 Mar 7]. Available from [11] Saigon Psychub. Đội ngũ nhân sự. [cited 2021 Feb 25]. Available from [12] Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn. Chương trình giáo dục đại học khoa tâm lý học khóa 2019-2023. [cited 2021 Feb 25]. Available from [13] Crawford C. Popular counseling theories used by school counselors. In Studer JR, Diambra JF Eds.. A guide to practicum and internship for school counselors-in-training. New York, NY Routledge/Taylor & Francis Group; 2010. 31–45 p. [14] Marklein MB. Expanding the Fulbright Legacy in Vietnam. Change The Magazine of Higher Learning. 2018 [cited 2021 Mar 6] 50163–70. Tìm hiểu khó khăn tâm lý của học sinh đầu lớp 1 trường TH Ngô QuyềnTP Kon Tum từ đó đề xuất phương pháp dạy học phù Quan niệm về học sinh đầu lớp luận án tiến sĩ “hình thành kỹ năng đọc và viết tiếng Việt cho học sinhđầu lớp 1” của tác giả Dương Thị Diệu Hoa, tác giả có nhấn mạnh “có thể hình thànhkỹ năng đọc, viết tiếng Việt cho học sinh đầu lớp 1 trong khoảng thời gian 12 tuần +1 thực học tính từ ngày khai giảng”. Cụ thể, ở nội dung của chương trình sau 12 bàihọc tương ứng với 12 tuần có bài kiểm tra chất lượng học phần I. Nhấn mạnh hơnnữa đến độ tuổi của HS đầu lớp 1, ở phần Kết quả thực nghiệm thăm dò – phần Mụcđích, tác giả Dương Thị Diệu Hoa viết “để đảm bảo độ “an toàn” của việc nghiên cứu,chúng tôi kéo dài thời hạn của độ tuổi đầu lớp 1. Trong đó chia làm 2 thời kỳ Nhữngtháng trước tuổi đi học cuối lớp mẫu giáo lớn trong thời gian hè chuẩn bị vào lớp 1và thời gian đầu lớp 1 khoảng 3 tháng đầu của năm học tính từ ngày khai giảng”[28ª, trang 100].Như vậy qua luận án của tác giả Dương Thị Diệu Hoa, tác giả quan niệm vềhọc sinh lớp 1 là khoảng thời gian tính từ 3 tháng tính từ ngày khai giảng cho đến khikiểm tra chất lượng học phần I. Ở luận án này, trên cơ sở tham khảo quan niệm của tácgiả Dương Thị Diệu Hoa và căn cứ vào Hướng dẫn thực hiện chương trình các mônhọc lớp 1 do Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành [3, 5-26] để quan niệm về học sinh đầulớp 1. Theo quy định của Bộ Giáo dục và Đào tạo, chương trình học các môn của HSlớp 1 diễn ra trong 35 tuần trong đó có 4 lần kiểm tra định kỳLần 1 vào tuần 10 Kiểm tra giữa kỳ ILần 2 vào tuần 18 Kiểm tra học kỳ ILần 3 vào tuần 26 Kiểm tra giữa học kỳ IILần 4 vào tuần 35 Kiểm tra học kỳ cứ vào phân phối chương trình như trên, khoảng thời gian 3 tháng đầu tính từngày khai giảng 5/9 đến khoảng 5/11 là mốc đầu lớp Đặc điểm tâm sinh lý của học sinh đầu lớp nhà tâm sinh lý cho rằng, thời kỳ trẻ 6 tuổi đến trường là thời kỳ thuận lợinhất cho việc phát triển trí tuệ. Ở giai đoạn này, trẻ đã có những tiền đề cần thiết sựchín muồi đến trường về các mặt tâm sinh lý, nhận thức, trí tuệ, ngôn ngữ và tâmthế,... để có thể thích nghi bước đầu tiên với điều kiện học tập ở lớp mặt chú ý của trẻ 6 tuổi chưa đạt đến trình độ bền vững và thường không cóchủ định, dễ bị phân tán. Khối lượng chú ý còn hạn chế, trẻ chỉ có thể bao quát được1-2 đối tượng cùng một lúc, trạng thái chú ý này biểu hiện rất rõ ở bề ngoài của trẻqua tư thế, cử chỉ, ....Về ghi nhớ trẻ 6 tuổi ghi nhớ máy móc rất tốt. Ghi nhớ có chủ định của trẻ đãphát triển nhưng ghi nhớ máy móc vẫn chiếm ưu với sự phát triển trí nhớ, trí tưởng tượng của trẻ 6 tuổi cũng phát triểnmạnh và có sắc thái mới so với trí tưởng tượng của trẻ em 4-5 tuổi. Trên cơ sở vốnkinh nghiệm tích lũy được, trí tưởng tượng của trẻ 6 tuổi trở nên hiện thực hơn, cótính sáng tạo GVHD Võ Đại Nam Anh* SVTH Ngô Thị Ngọc BíchNguyễn Thị Ngọc Ánh B Tìm hiểu khó khăn tâm lý của học sinh đầu lớp 1 trường TH Ngô QuyềnTP Kon Tum từ đó đề xuất phương pháp dạy học phù hợpTư duy của trẻ 6 tuổi mang nặng màu sắc cảm tính, kinh nghiệm chủ nghĩa màđặc trương của nó là kiểu tư duy chủ quan – hình ảnh tương ứng với cuộc sống vàhoạt động của trẻ 5-6 tuổi. Đó là kiểu tư duy hình thành trong cuộc sống, trong hoạtđộng vui chơi của các em, tạo tiền đề cho việc hình thành tư duy kiểu mới – tu duytrìu ngữ của trẻ 6 tuổi đã phát triển khá tốt, các em biết sử dụng đúng nhữngcâu đơn giản để giao tiếp với bạn và người lớn. Điều cần chú ý là ngôn ngữ tự kỉ củatrẻ em 6 tuổi, đó là ngôn ngữ hướng vào chính bản thân của đứa trẻ, ít phục vụ choviệc giao tiếp, nhưng là phương tiện tư duy của các trẻ phương diện tình cảm HS lớp 1 vẫn phản ứng mãnh liệt đối với những hiệntượng riêng lẻ làm trẻ bực mình. Tuy nhiên, trẻ bắt đầu kiềm chế cảm xúc của mìnhhơn, nhưng kiềm chế thái độ không bằng lòng, sự bực tức, tính tỵ nạnh khi ở trongtập thể lớp. HS lớp 1 còn “là người theo chủ nghĩa cực đoan nhất”. sở phát triểnnhững chức năng tâm lý và trí tuệ, nhân cách của trẻ cũng được phát triển. Trẻ em 6tuổi có sự phát triển bình thường về mặt sinh lý và tâm lý đều có thể đến trường vàđáp ứng yêu cầu của hoạt động học tập cũng như sinh hoạt trong nhà trường Đặc diểm hoạt động học tập của học sinh đầu lớp 1Sự hình thành những đặc điểm, cấu trúc và hoạt động học tập ở học sinh tiểuhọc là biệt so với trẻ mẫu tuổi học, sự lĩnh hội tri thức, kỹ năng và kỹ xảo của trẻ em diễn ra dướicác hình thức giao tiếp với người lớn, trực tiếp quan hệ với đồ vật thông qua các tròchơi, dưới các hình thức này, sự lĩnh hội biểu hiện như là những sản phẩm phụ củacác hoạt động khác, với tư cách là những điều kiện, phương tiện cần có của tình huống học tập là gì? Tình huống học tập là những hoàn cảnh mà giáoviên đặt ra đòi hỏi học sinh đứng trước nhũng hoàn cảnh đó cần phải tìm ra phươngthúc chung để giải quyết. Thông qua việc giải quyết nó, học sinh sẽ lĩnh hội được mộtphương thức hành động mới hoặc vận dụng phương thức hành động chung đã có vàoviệc giải quyết những vấn đề cụ thể có cùng bản giải quyết các tình huống học tập của trẻ được tiến hành từ những hànhđộng thuộc kiể khác nhau. Trong những hành động này, hành động học tập giữ vai tròchủ đạo. Nhờ có hoạt động học tập mà học sinh có thể tái tạo, lĩnh hội hoặc tìm ranhững phương thức chung để giải quyết tình hình thành hoạt động học tập của trẻ lớp 1 cần chú ý đến vấn đề sau- Trước hết, toàn bộ quá trình dạy học phải được xây dưng trên cơ sở làm cho trẻ cónhững biểu tượng đầy đủ về các nhân tố chủ yếu của hoạt động học tập hành độngmẫu và lôi cuốn các em tích cực thực hiện các hành động này. Cần vạch ra những chitiết, những tiền đề của tình huống học tập và chỉ cho tre một cách rõ ràng, đầy đủ vềcác trình tự của các cử động, thao tác của mỗi hành động, ứng xử và logic của mỗihành động, đặc biệt là hành động vật GVHD Võ Đại Nam Anh* SVTH Ngô Thị Ngọc BíchNguyễn Thị Ngọc Ánh B Tìm hiểu khó khăn tâm lý của học sinh đầu lớp 1 trường TH Ngô QuyềnTP Kon Tum từ đó đề xuất phương pháp dạy học phù hợp- Cần có sự chỉ bảo trực tiếp, sự kiểm tra và đánh giá đúng và chi tiết hành động, ứngxử của trẻ. Dần dần hình thành ở trẻ khả năng tự kiểm tra, đánh giá và tự điều chỉnhhành vi bằng cách đối chiếu hành vi ứng xử, hành động của bản thân trẻ với hành độngmẫu của giáo Khơi dậy ở trẻ nhu cầu, hứng thú với nội dung bên trong của các môn học, biếnthái độ tích, trừu tượng đối với nhận thức nói chung thành thái độ với tùng môn học thể nói rằng thông qua hoạt động học tập – hoạt động chủ đạo của học sinhlớp 1, là cơ sở cho sự phát triển tâm lý của các em. Việc tuân thủ thực hiện những yêucầu của hoạt động đòi hỏi ở trẻ những cấu tạo tâm lý mới mà trẻ chưa có, đồng thờinhững cấu tạo tâm lý này lại được hình thành trong chính quá trình học tập của cấu tạo tâm lý mới ở học sinh lớp 1 được hình thành trong quá trình họctập bao gồm Những chuẩn mực và nguyên tắc hành vi, tính chủ định, bình diện bêntrong của hành động và sự phản tỉnh. Nhờ có những cấu tạo tâm lý mới hình thànhtrong quá trình hoạt động học, đảm bảo cho trẻ hoạt động học tập ở lớp 1 và nhữngnăm sau lại, hoạt động học tập ở lớp 1 có một số đặc điểm cơ bản sau đây- Hoạt động học trở thành hoạt động chủ đạo của trẻ học lớp 1. Trong giai đoạnphát triển tâm lý của mình, trẻ có một hoạt động thể hiện quan hệ nổi bật, chiếm hữuưu thế giữa các em với một đối tượng trong hiện thực. Là hoạt động lần đầu tiên xuấthiện nhưng đóng vai trò quyết định sự hình thành những cấu tạo tâm lý mới cho trẻ vàtạo điều kiện cho sự phát triển trong những giai đoạn tiếp theoVào lớp 1, trẻ bắt đầu thực hiện “bước quá độ” vĩ đại nhất trong toàn bộ cuộcđời. Nó chuyển từ hoạt động vui chơi - hoạt dộng chủ đạo trong giai đoạn trước dã lỗthời sang hoạt động chủ đạo mới – hoạt động học với đối tượng mới xuất hiện lần đầutiên trong đời. Sự chuyển đổi hoạt động chủ đạo này kéo theo một loạt những thay dổikhác trong cuộc sống, đặt trẻ vào một tình huống mới chưa từng gặp, dễ gây ra cuộc“khủng hoảng” trong sự phát triển hiện tại và ảnh hưởng lâu dài với Hoạt động học có đối tượng nội dung là tri thức khoa học được phán ánhthông qua các môn học. Trước tuổi học, ở gia đình và lớp mẫu giáo, trẻ lĩnh hội nhữngtri thức kinh nghiệm thông qua các trò chơi. Còn với hoạt động học tập, nội dung lĩnhhội của trẻ lớp 1 là các khái niệm khoa học, phổ thông, chính xác và hiện đại được tổchức dưới hình thức các môn học. Để tiến hành có hiệu quả quan hệ với đối tượng này,trẻ buộc phải có những phẩm chất, năng lực và hành vi mới mà trước đó trẻ chưa Hoạt động học còn hướng vào lĩnh hội cách học. Với trẻ lớp 1, hoạt động họcđược tiến hành theo một quy trình mới. Để thực hiện hoạt động này có hiêu quả và đểhình thành được những phương tiện học tập, một trong những nhiệm vụ quan trọngcủa hoạt động học ở trẻ lớp 1 là phải hình thành chính hoạt động học mà bản chất làlĩnh hội được cách học, cách làm việc trí óc như một phương thức đặc điểm cơ bản nêu trên của hoạt động học đòi hỏi trẻ phải có những thayđổi căn bản về cách thức sống, cách thức hoạt động để có thể đáp ứng được những yêu11* GVHD Võ Đại Nam Anh* SVTH Ngô Thị Ngọc BíchNguyễn Thị Ngọc Ánh B Tìm hiểu khó khăn tâm lý của học sinh đầu lớp 1 trường TH Ngô QuyềnTP Kon Tum từ đó đề xuất phương pháp dạy học phù hợpcầu của việc học. Tuy nhiên, không phải trẻ lớp 1 nào cũng có thể đáp ứng đượcnhững yêu cầu của hoạt động học tập ngay từ những ngày đầu đi học, chính vì vậy đãcó nhứng KKTL trong hoạt động học tập ở trẻ lớp điểm sinh hoạt trong nhà trường của HS đầu lớp 1Đi học lớp 1 là một bước ngoặt quan trọng trong đời sống của trẻ. Có thể nói rằng,năm học lớp 1 là năm diễn ra những biến đổi quan trọng trong các điều kiện sống vàhoạt động của trẻ, và từ đó kéo theo sự thay đổi tâm lý của giai đoạn lứa tuổi mẫu giáo, hoạt động vui chơi là hoạt động chủ đạo, thì vào lớp1, việc học tập và tích lũy tri thức đã trở thành hoạt động chủ đạo của trẻ. Chính trongquá trình chuyển hoạt động chủ đạo từ vui chơi sang học tập khiến trẻ gặp phải một sốKKTL nhất định. Bởi lẽ, bước vào lớp 1, học tập trở thành bổn phận hàng đầu và quantrọng nhất của trẻ. Đến trường, HS bước vào các quan hệ mới và phức tạp hơn đối vớicác em. Đó là mối quan hệ với thầy cô và bạn bè cùng tuổi. Trong quan hệ với giáoviên GV của trẻ lớp 1 khác với quan hệ với GV ở thời mẫu giáo. Nếu như ở giaiđoạn mẫu giáo, trẻ dược cô cưng chiều hơn, dỗ dành nhiều hơn thì ở giai đoạn này,việc nhà trường và GV đề ra một loạt yêu cầu mới nội quy, nề nếp sinh hoạt học tậpkhá nghiêm túc bắt buộc trẻ phải tuân thủ để cho việc học tập tiến hành một cách bìnhthường, và điều này ít nhiều làm xáo trộn tâm lý của trẻ. Ngoài ra, đây còn là giai đoạnchuyển tiếp của trẻ khi kết hợp những nét tâm lý đã hình thành ở tuổi mẫu giáo vớinhững phẩm chất của một HS đang được hình thành. Quá trình chuyển đổi này đòi hỏihọc sinh lớp 1 phải có những cấu tạo tâm lý mới để giúp trẻ thích nghi với quá trìnhhọc tập ở nhà vậy, trong giai đoạn đầu lớp 1, trẻ phải tuân thủ những yêu cầu của nhà trường,hình thành những hành vi, hứng thú học tập. Tuy nhiên, trẻ không có ngay những điềuđó. Để hình thành được những hứng thú học tập trẻ phải trải qua những khó khăn nhấtđịnh ở mức độ khác nhau tùy thuộc vào mỗi MỘT SỐ BIỂU HIỆN VÀ NHÂN TỐ DẪN ĐẾN KHÓ KHĂN TÂM LÝ ĐẦULỚP Một số biểu hiện dẫn đến khó khăn tâm lý của học sinh đầu lớp KKTL trong hành vi thực hiện nội quy học tậpNội quy học tập là những quy định do nhà trường đề ra áp dụng trong nhà trường,đòi hỏi mọi HS phải tuân thủ và nghiêm chỉnh thực người cho rằng hành vi là tất cả các phản ứng của con người vô thức, ý thức,máy móc. Trong khi đó lại có người cho rằng, hành vi là những phản ứng có ý thức,được điều khiển bởi ý thức. Một số khác lại cho rằng hành vi là cách ứng xử của mộtngười trong một hoàn cảnh cụ thể được biểu hiện ra bên ngoài bằng lời nói, cử chỉnhất vậy, hành vi thực hiện nội quy học tập thể hiện cách ứng xử của HS đối vớinhững quy định do nhà trường đề GVHD Võ Đại Nam Anh* SVTH Ngô Thị Ngọc BíchNguyễn Thị Ngọc Ánh B Tìm hiểu khó khăn tâm lý của học sinh đầu lớp 1 trường TH Ngô QuyềnTP Kon Tum từ đó đề xuất phương pháp dạy học phù hợpKKTL trong hành vi thực hiện nội quy học tập được biểu hiện qua 9 mặt sau1. Không tập trung quay ngang, quay ngửa, nhìn ra ngoài...2. Ngủ gật trong giờ học3. Nói chuyện riêng4. Làm việc riêng trong giờ học5. Chui xuống gầm bàn, nằm ra ghế6. Đi học muộn7. Quên xếp hàng vào lớp8. Vẽ bậy, vứt rác ra lớp, trường9. Quên mặc đồng KKTL trong hành vi thực hiện nề nếp học tậpĐi đôi với việc thực hiện nội quy trong học tập, công tác xây dựng nề nếp cho HS làmột trong những nhiệm vụ quan trọng của người GV. Trên thực tế, nếu không có nềnếp thì giáo dục và dạy học trên lớp sẽ không đạt hiệu quả nếp học tập là những quy đinh thói quen chung để duy trì sự ổn định, trật tựtrong học tập và làm cho quá trình học tập của học sinh thu được kết quả vậy, hành vi thực hiện nề nếp sinh hoạt và học tập thể hiện cách ứng xử của HSđối với những quy định và thói quen chung trong sinh hoạt và học tập tại cứ vào thực hiện nề nếp sinh hoạt và học tập trong nhà trường tiểu học, KKTLtrong hành vi thực hiện nề nếp sinh hoạt và học tập được nghiên cứu và thể hiện vào 8biểu hiện sau1. Quên làm bài tập về nhà2. Quên học bài trước khi đến lớp3. Quên chép bài trong giờ học4. Quên mang sách vở, đồ dùng học tập5. Mang nhầm sách vở, đồ dừng học tập6. Nhìn bài của bạn7. Nhắc bài cho bạn khi không được phép của cô giáo8. Không giơ tay xin phép cô khi phát biểu ý KKTL trong hành động đọc, viết, làm toánĐối với HS đầu lớp 1, nội dung học tập dành cho HS lớp 1 không nhiều nhưngkhó thành công. Nội dung học tập dành cho lớp 1 chỉ cần đủ để tiếp cận với việc họcnhư học nghe, học nói, học đọc, học viết; học làm tính cộng, làm tính trừ với những sốnhỏ trong phạm vi 10, 20; học về một số phép ứng xử trong mối quan hệ của trẻ nhỏ,13* GVHD Võ Đại Nam Anh* SVTH Ngô Thị Ngọc BíchNguyễn Thị Ngọc Ánh B

khó khăn tâm lý